Đá mỹ nghệ thường được điêu khắc từ 4 loại đá chính gồm: Đá magma, đá biến chất, đá trầm tích, đá nhân tạo, mỗi loại đá này lại phân thành nhiều loại đá khác nhau và thường được sử dụng trong lĩnh vực điêu khắc. Vậy, hãy cùng đá mỹ nghệ Đà Nẵng tìm hiểu về các loại đá này:
Đá magma (đá núi lửa):
Tính chất của nhóm đá này được giữ vẹn toàn như lúc mới được hình thành. Quá trình hình thành diễn ra dưới nhiệt độ cực cao của núi lửa. Lớp magma với nhiệt độ cực cao sẽ chảy qua các khối đá trong đây. Chúng được làm nguội theo thời gian và hình thành ra nhiều loại đá khác. Đá granite, bazan đều thuộc nhóm đá magma này.
Đá hoa cương (đá Granite):

Là một trong những loại đá cứng nhất cần rất nhiều kỹ năng khác nhau để có thể thao tác với nó, chạm khắc trên đá hoa cương có thể gần như được xem là một nghề riêng biệt. Với sự kiên trì cao một hình dáng đơn giản có thể được chạm vào đá hoa cương và từ đó tùy thuộc vào kỹ năng của thợ đá sẽ cho ra các tác phẩm có độ chi tiết khác nhau.
Đá mácma:
Có nhiều loại rất mềm như đá bọt và xỉ núi lửa rất dễ chạm khắc hay một số cứng hơn như đá vỏ chai hay đá bazan thì cần nhiều kỹ năng hơn để chạm khắc.
Đá Obsidian:
Còn gọi là đá vỏ chai, hắc diện thạch là một dạng thủy tinh núi lửa tự nhiên được tạo ra ở dạng đá mácma phun trào. Nó được tạo ra khi dung nham felsic phun trào ra từ núi lửa và nguội lạnh nhanh nên bên trong nó có các tinh thể rất nhỏ. Obsidian thường được tìm thấy ở rìa của các dòng dung nham rhyolit, vì thành phần hóa học của nó nhiều silica, tạo ra độ nhớt và mức độ trùng hợp của dung nham cao. Sự kiềm hãm khuếch tán nguyên tử qua dung nham bị polymer hóa và độ nhớt cao này được lý giải là do thiếu sự phát triển của tinh thể. Do thiếu các cấu trúc tinh thể nên các rìa của nó có thể đạt đến độ mỏng gần như ở kích thước phân tử, vì vậy mà người tiền sử đã sử dụng nó làm các dụng cụ có đầu nhọn và các lưỡi (dao) bén, và trong hiện đại nó được dùng làm lưỡi dao mổ.
Đá Bazan:

Là một loại đá mácma phun trào (từ núi lửa) phổ biến, được hình thành từ sự làm nguội nhanh của dung nham bazan khi tiếp xúc hoặc rất gần bề mặt của một hành tinh đá hoặc mặt trăng. Lũ bazan mô tả sự hình thành một loạt các dòng dung nham bazan.
Đá biến chất:
Dưới tác động của nhiệt độ, áp suất và quá trình biến đổi hóa học, đá biến chất được hình thành. Thông thường, quá trình này diễn ra ở sâu trong lòng đất. Những điều kiện khắc nghiệt trên đã làm thay đổi thành phần khoáng chất, vân đá, và thành phần hóa học của đá so với ban đầu. Vì thế nên mới có tên gọi là đá biến chất. Sau quá trình biến chất, đá vôi hoặc đá dolomite trở thành đá cẩm thạch.
Đá cẩm thạch:
Tượng chú tiểu do damynghe.net làm từ đá cẩm thạch trắng theo yêu cầu của khách hàng tại Củ Chi
Lan can đá do damynghe.net làm từ đá cẩm thạch trắng theo yêu cầu của khách hàng tại An Giang
Là loại nguyên liệu truyền thống củ nghề điêu khắc đá, nó được sử dụng và khai thác rất nhiều đặc biệt là đá cẫm thạch trắng.
Cẩm thạch, còn gọi là đá hoa, là một loại đá biến chất từ đá vôi có cấu tạo không phân phiến. Thành phần chủ yếu của nó là calcit (dạng kết tinh của cacbonat calci, CaCO3). Nó thường được sử dụng để tạc tượng cũng như vật liệu trang trí trong các tòa nhà và một số dạng ứng dụng khác. Từ Cẩm thạch (marble) cũng được sử dụng để chỉ các loại đá có thể làm tăng độ bóng hoặc thích hợp dùng làm đá trang trí.
Đá phiến:
Là một loại đá được sử dụng rất phổ biến đặc biệt khi xây các tượng đài hay đài tưởng niệm vì nó khá dễ khắc chữ. Và cấu trúc từng lớp mỏng của nó làm nó trở thành vật liệu lợp mái phổ biến. Đá phiến (tiếng Anh: schist) là một loại đá biến chất cấp trung bình.
Đá trầm tích:
Như tên gọi của nó, đá trầm tích được hình thành nhờ sự tích tụ của nhiều lớp trầm tích. Phiến đá ngoài tự nhiên sẽ chịu tác động bào mòn của gió, mưa ánh sáng mặt trời. Những mảnh đá nhỏ sẽ rơi xuống khu vực phía dưới tạo ra các lớp trầm tích. Ngoài ra, thực vật hay sinh vật biển khi chết lắng xuống đáy đại dương bồi đắp lớp trầm tích. Trải qua hàng ngàn năm tích tụ, các loại đá dần dần được hình thành. Có hai loại chính của đá trầm tích được sử dụng trong công việc xây đựng là đá vôi và sa thạch.
Đá vôi:
Là loại một loại đá trầm tích, về thành phần hóa học chủ yếu là khoáng vật calcit và aragonit (các dạng kết tinh khác nhau của cacbonat calci CaCO3). Đá vôi ít khi ở dạng tinh khiết, mà thường bị lẫn các tạp chất như đá phiến silic, silica và đá mácma cũng như đất sét, bùn, cát, bitum… nên nó có màu sắc từ trắng đến màu tro, xanh nhạt, vàng và cả màu hồng sẫm, màu đen.
Đá Sa thạch:
Là đá trầm tích vụn cơ học với thành phần gồm các hạt cát chủ yếu là felspat và thạch anh được gắn kết bởi xi măng silic, calci, oxit sắt… Tuỳ theo từng loại xi măng mà cát kết có màu sáng, xám, lục đỏ. cát kết là loại đá nằm giữa đá vôi và đá bùn.
Đá nhân tạo:
Đá nhân tạo là vật liệu xây dựng thay thế các bề mặt đá tự nhiên được sử dụng khá phổ biến hiện nay. Nó được cấu tạo từ đá nghiền liên kết với các chất kết dính như nhựa polymer.
Đá nhân tạo được sản xuất với cốt liệu nhẹ để có trọng lượng nhỏ hơn so với đá tự nhiên. Trọng lượng nhẹ, dễ thi công và sự đa dạng của sản phẩm là những lợi thế quan trọng của vật liệu này. Các thiết kế có thể là đá vuông, hình dạng không đều hoặc tròn, thậm chí là giả gạch.
>> Xem thêm: Đá mỹ nghệ Đà Nẵng