Tượng Thập Bát La Hán bằng đá cẩm thạch xám là một trong những công trình tượng đá tâm linh mà công ty cổ phần đá mỹ nghệ Đà Nẵng đã thực hiện cho khách hàng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Điều đặc biệt của các tượng đá trên chính là chiếc áo choàng màu đà với chất liệu bằng đá đã giúp cho công trình trở nên đẹp mắt, chân thật và sắc nét hơn. Từ đó, gây ấn tượng với mọi người ngay từ ánh nhìn đầu tiên.
Nguồn gốc tượng Thập Bát La Hán:
Tượng Thập Bát La Hán cũng mang nhiều ý nghĩa trong tâm linh và Phật Giáo. Bộ tượng xuất hiện dựa trên tác phẩm “Đại A La Hán Nan Đề Mật Đa La sở thuyết pháp trụ ký” của tác giả Đường Đại Huyền Trang. Ban đầu Thập Bát La Hán chỉ có 16 vị. Cũng chính là 16 người đệ tử được Đức Phật để lại nhân gian cho chúng sinh cung dưỡng và bảo vệ Phật hiệu.
Sau một thời gian, thuyết về 18 vị La Hán được khởi xướng, bắt nguồn từ con số 9. Bởi người ta cho rằng số 9 là một con số may mắn, mà bội số của 9 là 18. Vì thế 18 sẽ là một con số vô cùng đẹp, mang đến nhiều điều may mắn.
Có những tượng Thập Bát La Hán nào:
Tượng Cử Bát La Hán:
La Hán Cứ Bát có tên là Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà. Ngài vốn là một đại đệ tử của đức Phật được giao phó trách nhiệm giáo hóa vùng Đông Thắng Thần Châu.
Vị Ca-nặc-ca được miêu tả lại với hình tượng tay luôn cầm một chiếc bát sắt để đi khất thực, du hành nên được gọi là La Hán Cử Bát. Được biết, khất thực là một việc không thể thiếu của một vị chân tu. Công việc khất thực này mang đến ý nghĩa của sự rèn luyện nhân nhục, kiên trì, từ bi.
Tượng La Hán Tiếu Sư:
Ngài có tên là Phạt-xà-la-phất-đa-la (Vajraputra). Hình tượng Ngài được khắc họa khá mạnh mẽ và trông dữ tợn như chính những gì ngài đã làm trước khi xuất gia. Trước khi xuất gia, ngài làm nghề thợ săn. Với thể lực tráng kiện, ngài có thể một tay nâng voi, nắm sư tử ném xa 10 mét. Sau khi xuất gia, Ngài nỗ lực tu tập, bên cạnh luôn có một con sư tử quấn quýt, cho nên mới có biệt hiệu là La Hán Đùa Sư Tử hay còn gọi là La Hán Tiếu Sư.
Tượng La Hán Bố Đại:
Tên của Ngài là Nhân yết đà (Angada). Theo truyền thuyết Ngài là người bắt rắn ở Ấn Độ, xứ này nhiều rắn độc hay cắn chết người, Ngài bắt chúng, bẻ hết những răng nanh độc rồi phóng thích lên núi. Hành động ấy phát xuất bởi lòng từ cao độ, nên Ngài được xem như biểu trưng của từ bi. Sau khi đắc đạo, Ngài thường mang một túi vải bên mình để đựng rắn, cũng trùng hợp như Hòa thượng Bố Đại ở Trung Hoa.
Khai Tâm La Hán:
La Hán Khai Tâm có tên gọi là Thú-bác-ca. Khi chưa xuất gia, Ngài vốn là người Bà-la-môn, khi nghe nói thân Phật cao một trượng sáu nên ngài không tin nên đã chặt một cây trúc dài đúng một trượng sáu để đích thân đọ Phật nhưng dù đo bằng cách nào thì đức Phật đều cao hơn khiến ông mới khâm phục và xin quy y làm đệ tử của đức Phật.
Tượng La Hán Phục Hổ:
Tọa Lộc La Hán Ngài có tên là Đạt-ma-đa-la (Dharmatrata). Thuở nhỏ, người đã có căn duyên tu tập, thường chiêm ngưỡng hình tượng 16 vị La Hán thờ trong điện. Với lòng thành tín đạo, ngài đã được các vị La Hán chỉ dạy tu tập. Từ đó ngài siêng năng tọa thiền, xem kinh và làm việc thiện, chẳng bao lâu chứng quả thành Phục Hổ La Hán.
Ngài có tên Phục Hổ là vì Tôn giả ba lần thu phục một con hổ dữ đem nó về núi cho tu, đi đâu thì dẫn theo. Và hình ảnh này đã gắn liền với ngài từ đó. Tượng của ngài được khắc họa vô cùng dũng mãnh và tráng kiện, ngồi trên lưng con Hổ như chứng minh sức mạnh của Phật Pháp, không gì là không thể hàng phục.
Khánh Hỷ La Hán:
La Hán Khánh Hỷ vốn tên là Ca-nặc-ca-phạt-tha. Hay còn gọi là Yết-nặc-ca-phược-sa. Ngài được Đức Phật khen là vị La Hán phân biệt thị phi trắng đen rõ ràng nhất. Xưa khi chưa xuất gia thì Ngài vốn là người rất tuân thủ khuôn phép, giữ gìn và ý tứ từ lời nói cho tới hành động. Sau khi ngài đã xuất gia thì lại càng trở nên khuôn phép hơn. Không bao giờ cho một ý nghĩ xấu xa nào khởi phát mà luôn nỗ lực tinh thần tu tập. Chính vì nhờ thiện căn sâu dày mà ngài đã tu thành chính quả La Hán rất nhanh chóng.
Tượng La Hán Ba Tiêu:
La Hán Ba Tiêu có tên là Phạt-na-bà-tư (Vanavàsin). Ngài được khắc họa với chân dung đang tọa thiền trên phiến đá lớn. Theo truyền thuyết ngài khi xuất gia thường thích tu tập trong núi rừng, đứng dưới các cây chuối nên còn được gọi là La Hán Ba Tiêu.
Thác Tháp La Hán:
La Hán Thác Tháp có tên gọi là Tô-tần-đà. Ngài vốn là người tu tập rất tinh nghiêm. Thường xuyên giúp người rất nhiệt tình nhưng lại ít nói chuyện. Ngài thường ít khi theo đức Phật ra ngoài và chỉ tinh xá quét sân hoặc đọc sách. Chính vì dành trọn thời gian tọa thiên nên ngài thành chính quả La Hán rất sớm.
Ngài là một trong những đệ tử cuối cùng của đức Phật nên đi đâu cũng cầm tháp nhỏ trong tay để ghi nhớ công đức của Thế Tôn cũng như pháp thân của Phật thường trụ mãi bất diệt. Cũng chính vì vậy ngài được gọi là La Hán Nâng Tháp.
Tĩnh Tọa La Hán:
La Hán Tĩnh Tọa tên là Nặc-cù-la hay Nặc-cự-la. Tương truyền ngài thuộc giai cấp Sát-đế-lợi có sức mạnh vô song, cuộc sống chỉ có chiến tranh. Sau khi xuất gia theo Phật, ngài tu thành chính quả trở thành La Hán trong tư thế tĩnh tọa. Xưa kia, ngài vốn là một võ sĩ nên khi xuất gia vẫn vận dụng sức lực khi hành thiền. Ngài là một trong những vị đại đệ tử của Phật. Ngài có hình ảnh như một vị thầy, tay cầm một chuỗi tràng và có một chú tiểu đứng cạnh.
Tĩnh Tọa La Hán thường được biết đến với ý nghĩa: đi trên con đường tu tâm chân chính, công phu tọa thiền, quán chiếu bằng trí tuệ, sức nhẫn nhục cao, nghiêm trì tịnh giới thì mới mang đến kết quả không thể thối chuyển.
Tượng La Hán Tọa Lộc:
Tượng La Hán Tọa Lộc tên là Tân-đầu-lô-phả-đọa (Pindola Bharadvaja). Ngài xuất thân từ dòng Bà-la-môn, vốn là một đại thần danh tiếng của vua Ưu Điền. Ngài thích xuất gia nên đã rời bỏ xa hoa gấm vóc nơi triều đình để vào rừng núi tu tập. Ngài đã đắc đạo thành chứng Thánh quả cưỡi hươu về triều để khuyến hóa vua. Hình tượng ngài ngồi trên lưng con Hươu thong dong, tự tại đã minh chứng cho những tháng ngày tu thành chính quả.
Trường Mi La Hán:
La Hán Trường Mi có tên gọi là A-thị-đa thuộc dòng dõi Bà-la-môn của nước Xá-vệ. Tương truyền ngài từ khi mới sinh ra đã có lông mày dài rủ xuống. Sau khi xuất gia thì ngài đã phát triển thiền quán và tu thành chính quả La Hán. Khi tu thành chính quả ngài vẫn du hóa trong nhân gian.
Khi nhắc đến tên của ngài là người ta nghĩ ngay đến sự từ bi, đức hạnh, dành trọn niềm tin cho Phật, là một nhân chứng sống cho các quý Phật tử.
Kháng Môn La Hán:
La Hán Kháng Môn có tên gọi là Chú-trà-bán-thác-ca hay còn gọi là Châu-lợi-bàn-đặc. Theo truyền thuyết thì ngài được coi như một tấm gương mẫu mực về sự cần cụ nhẫn nại. Vốn là người không thông minh, không tiếp thu được Phật pháp nhưng về sau được đức Phật chỉ dạy ngài thực hành pháp môn quét rác với chiếc chổi trên tay. Chính nhờ sự kiên trì, quyết tâm thực hành lời dạy của đức Phật, ngài đã tu thành chính quả trở thành La Hán.
Tượng của Kháng Môn La Hán được khắc họa trên tay đang cầm một chiếc gậy được treo những chiếc chuông nhỏ ở phía trên. Được biết, đây là linh vật mà Phật đã trao tặng cho ngài với ý nghĩa trong quá trình đi khất thực không cần gõ cửa từng nhà.
Quá Giang La Hán:
Quá Giang La Hán có tên gọi là Bạt-đà-la (Bhadra). Bạt-đà-la còn gọi là Hiền, vì mẹ Ngài hạ sanh Ngài dưới cây Bạt-đà, tức là cây Hiền.
Theo truyền thuyết ngài là người thích tắm rửa, một ngày có thể tắm cả chục lần. Lúc mọi người làm việc khác ngài lại tắm, lúc mọi người đi ngủ ngài cũng tắm, đêm tắm đến năm, sáu lần. Khi đức Phật biết đến điều này đã chỉ dạy cách tắm rửa cho Thế Tôn. Tắm – nghĩa là vừa tẩy rửa thân thể vừa tẩy rửa những ô uế trong tâm, gột sạch các tham sân si phiền não để tâm thanh tịnh. Từ đó, ngài làm theo và chứng được quả A-la-hán.
Tượng La Hán Hàng Long:
Tên của ngài là Nan-đề-mật-đa-la (Nandimitra). Hình tượng của ngài được khắc họa trong dáng vẻ rất mạnh mẽ, đang đấu nhau với một con rồng. Truyền thuyết kể rằng có một lần cả đảo Sư Tử bị Long Vương dâng nước nhấn chìm, Tôn Giả đã ra tay hàng phục một con rồng lớn và được tặng danh hiệu Hàng Long La Hán. Ngài là vị Đại La-hán thần thông quảng đại, đạo hạnh trang nghiêm.
Trầm Tư La Hán:
Ngài có tên là La-hầu-la (Rahula). Trước khi xuất gia, ngài có tánh vương giả, hay trêu ghẹo người. Nhưng sau khi giác ngộ tu Phật, ngài liền biến thành vị Tỳ Kheo khiêm cung nhẫn nhục, không tranh hơn thua, Sau khi theo Phật xuất gia, nhờ sự giáo dưỡng của Thế Tôn, Ngài bỏ dần tập khí vương giả và thói xấu trêu ghẹo người, nỗ lực tu tập để chứng Thánh quả.
Ngài luôn khiêm cung nhẫn nhục, không thích tranh cãi hơn thua. Ai phỉ nhổ ai đối xử ác độc đều mặc kệ, ngài bình thản đón nhận lặng lẽ tu tập.
Thám Thủ La Hán:
La Hán Thám Thủ có tên gọi là Bán-thác-ca. Tương truyền thì ngài vốn là một vị hoàng tử của tiểu quốc Kinota. Sau khi xuất gia thì ngài thường thích ngồi thiền bán già. Mỗi khi thức dậy thì ngài thường giơ tay lên cao hít một hơi dài vì vậy mà ngài được gọi là La Hán Giơ Tay.
Tượng Thám Thủ La Hán được khắc họa với đưa hai tay lên một cách sảng khoái sau quá trình tiền định. Hành động này biểu hiện của sự giác ngộ, tinh thần phấn chấn sau khi tu tập Phật Pháp.
Khoái Nhĩ La Hán:
La Hán Khoái Nhĩ có tên gọi là Na-già-tê-na hay còn gọi là Na Tiên. Theo tiếng Phận thì tên ngài có nghĩa là đội quân của rồng tượng trưng cho sức mạnh siêu nhiên. Ngài được sinh ra ở miền Bắc Ấn Độ. Ngài là một vị La Hán nổi tiếng về tài biện luận.
Khoái Nhĩ La Hán mang biểu tượng một con người có một cái miệng để nói nhưng có đến 2 cái tai để nghe, điều này mong muốn các bạn hãy học cách lắng nghe nhiều hơn. Đây là một biện pháp tu tập nhằm góp phần giúp chúng ta ngày một thông minh hơn.
Kỵ Tượng La Hán:
La Hán Kỵ Tượng có tên gọi là Ca-lý-ca. Xuất thân vốn là người chăn voi nên khi tu thành chính quả, để tưởng nhớ nghề nghiệp của ngài nên hình ảnh của ngài thường kèm theo một con voi đi cùng. Bên cạnh đó, ngài còn được gọi với tên khác là Sư Tử Vương Kala được vua Tần Bà Sa La rất kính trọng. Hình ảnh của ngài được thể hiện với tư thế ngồi thiền hoặc đọc kinh hoặc có thể là tay cầm lá.
Trên đây là bộ tượng Thập Bát La Hán bằng đá cẩm thạch xám cực sắc nét do công ty cổ phẩn đá mỹ nghệ thực hiện cho khách hàng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Thông qua bộ tượng Thập Bát La Hán do chúng tôi sản xuất, quý vị có thể dễ dàng hiểu ra nguyên do vì sao đá mỹ nghệ Đà Nẵng lại có thể cạnh tranh với hàng trăm đối thủ trên khắp cả nước và tồn tại lâu dài như vậy.
Bằng cái tâm trong nghề, chúng tôi đã đặt hết trí óc và tâm tình của mình vào trong các tác phẩm, ngày đêm dày công nghiên cứu hình ảnh của các vị La Hán để có thể khắc hoạ tượng đá sống động, chân thật và đạt thẩm mỹ nhất có thể, đặt biệt là các thông đẹp của hình tượng luôn được người thợ gửi gắm vào tác phẩm khiến cho người khác dễ dàng cảm nhận được khi chiêm ngưỡng.
Ngoài công trình tượng đá tâm linh trên, chúng tôi đã và đang hoàn thành rất nhiều các công trình, tác phẩm khác ở trên khắp mọi miền Tổ Quốc. Hi vọng với tài năng của mình, mang đến cho mọi người, mọi nhà những tượng đá đẹp và hoàn chỉnh nhất. Bên cạnh đó, chúng tôi còn là địa chỉ tin cậy trong lĩnh vực xây dựng lăng mộ, mộ đá và chuyên sản xuất các vật dụng tâm linh như: bàn thờ đá, bàn lễ đá, lư hương, bình phong đá, đèn đá,… Đến với đá mỹ nghệ Đà Nẵng để thăng hoa cùng nghệ thuật và được tư vấn kỹ lưỡng về phong thủy.
>> Xem thêm: Đá mỹ nghệ Đà Nẵng